Chú thích Nguyễn_Trường_Tộ

  1. Về năm sinh của Nguyễn Trường Tộ, theo GS. Lê Thước trong bài "Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tiểu sử" đăng trên Nam Phong tạp chí số 102, và hầu hết các tác giả tiếp sau đó, đều nói: "ông sinh năm Minh Mạng thứ 9 (1828)". Tuy nhiên, trong "Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ" do Nguyễn Trường Cửu (con trai của Nguyễn Trường Tộ) viết, mặc dù không nói năm sinh, nhưng nói: "mất ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức 24 (1871)... thọ 41 tuổi", tức sinh năm 1830 hoặc 1831 (thường thì tuổi thọ tính theo tuổi ta). Hiện nay, theo Linh mục Trương Bá Cần, thì vẫn chưa có đủ tài liệu để xác định một cách chắc chắn về năm sinh của ông (sách ở mục tham khảo, phần I: "Nguyễn Trường Tộ - Con người". Bản điện tử trang 1).
  2. Tên "Thầy Lân" từng được nói tới trong các thư của các thừa sai người Pháp lúc bấy giờ. Trong tờ tấu của Cơ mật viện (Huế) đề ngày 14 tháng 5 năm 1867, cũng thấy nói: "Nguyễn Trường Tộ, tức tên Thầy Lân" (dẫn theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 1).
  3. Giám mục Gauthier và người dân lúc ấy thường gọi Nguyễn Trường Tộ bằng danh hiệu "Kiến trúc sư", mặc dù ông chưa học qua chuyên ngành. Như trong thư gửi Hội Truyền giáo Nước ngoài ở Paris (đề ngày 1 tháng 1 năm 1870), Giám mục Gauthier viết: "...Người ta quen gọi là Kiến trúc sư vì ông ta (chỉ ông Tộ) đã xây ngôi nhà ba tầng của các nữ tu Sài Gòn, một nhà nguyện và một ngọn tháp cao nổi bật..." (dẫn lại theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 2).
  4. Có tài liệu nói ông sinh ở làng Bùi Ngõa, hoặc làng Đoài Giáp tức Xã Đoài (ghi chú của GS. Nguyễn Huệ Chi, tr. 1207).
  5. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, tr. 676.
  6. Tác giả Đinh Văn Chấp viết: "Lúc nhỏ Tộ cũng giỏi về lối học khoa cử, thời bấy giờ có tên là Trạng Tộ" (dẫn lại theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 1).
  7. GS. Đào Duy Anh viết: "...Tiên sinh (Nguyễn Trường Tộ) đã được Giám mục Gauthier, giáo phận Xã Đoài dạy cho tiếng Pháp, cung cấp cho các bản dịch chữ Hán của các sách Tây phương và cho đi du lịch ở Hong KongSingapore" (Bulletin des Amis du Vieux Hue số 2 tháng 4 - 6 năm 1944, tr. 135).
  8. Đầu tháng 9 năm 1858, quân Pháp bắt đầu đánh chiếm cảng Đà Nẵng. Để kiểm soát và ngăn chặn người Công giáo có thể tiếp tay với họ, Triều đình Huế cho bắt giam các giáo sĩ và trùm trưởng, đồng thời ra lệnh "phân tháp" giáo dân. Nghĩa là phân tán người Công giáo bằng cách tháp nhập (sáp nhập) hai ba gia đình Công giáo vào trong một làng không Công giáo, chứ không cho ở tập trung. Đây là một biện pháp gây nhiều thiệt hại và đau khổ cho đồng bào Công giáo lúc bấy giờ (theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 1).
  9. Sau khi quân Pháp bị cầm chân ở Đà Nẵng (xem: Trận Đà Nẵng (1858-1859)), theo Trương Bá Cần (sách đã dẫn, bản điện tử trang 1), thì các giáo sĩ Pháp ở Đà Nẵng, đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp đánh kinh đô Huế. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Nam, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hương Cảng. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ đã đi sang nơi đó trong hoàn cảnh như thế.
  10. Hầu hết các tác giả, kể cả Nguyễn Trường Cửu (con trai của Nguyễn Trường Tộ) đều nói là từ Hồng Kông, Giám mục Gauthier đã đem Nguyễn Trường Tộ sang Pháp, sang Roma (Ý) vào chầu Giáo hoàng Piô IX. Nhưng nay thì biết rõ rằng trong những năm 1859-1860, Giám mục Gauthier không về Pháp. GS. Đào Duy Anh nói là "Giám mục Gauthier đưa Nguyễn Trường Tộ sang Hồng Kông rồi để cho Nguyễn Trường Tộ một mình đi Pháp"...Sự thực là với tài liệu hiện có, không biết chắc được là trước năm 1861, Nguyễn Trường Tộ có đi sang các nước phương Tây để tìm tòi học hỏi hay chỉ quanh quẩn ở các nước Đông Nam Á như Hồng Kông, Mã Lai... là những nơi có cơ sở hậu cần lớn của Hội Truyền giáo Nước ngoài của Paris...(theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 1. Cũng theo ông Cần thì ông Tộ có lẽ sang Ý nhân chuyến đi Pháp năm 1867).
  11. Dẫn lại theo Trương Bá Cần (bản điện tử trang 1). Các chữ trong ngoặc là của người soạn.
  12. Nhờ có lòng ham học hỏi và ý thức học tập một cách nghiêm túc, Nguyễn Trường Tộ đã có được sự hiểu biết ấy. Trong bản "Trần tình" (7 tháng 5 năm 1863), Nguyễn Trường Tộ viết: "...cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu..."
  13. Nguyễn Trường Tộ, Thiên hạ đại thế luận, Di thảo số 1, tháng 3 – 4 năm 1863, in trong Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr. 107.
  14. Nhờ Nguyễn Trường Tộ có nhắc tới văn bản này trong thư gửi cho đại thần Phan Thanh Giản vào tháng 3 năm 1864, mà biết được nội dung chủ yếu của nó.
  15. Đánh giá của GS. Nguyễn Huệ Chi (tr. 1207). Tu viện Dòng Thánh Phaolô Sài Gòn được khởi công từ tháng 9 năm 1862 và hoàn tất ngày 18 tháng 7 năm 1864. Linh mục Le Mée (thừa sai Paris) trong một bức thư đăng trên tập san Missions Catholiques năm 1876, có nói về công việc ấy như sau: "Đức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc đã đem theo một nho sĩ Bắc Kỳ, tên là Lân (tức Nguyễn Trường Tộ). Với trí thông minh hiếm có, lại được gợi ý và được thúc đẩy bởi sự nhiệt tình và tận tụy của Giám mục Gauthier, nho sĩ Bắc Kỳ này, vì tình yêu Thiên Chúa, đã nhận đứng ra đốc suất công việc. Trước kia, ông có ở Hồng Kông ít lâu và trong thời gian ngắn ngủi tại thuộc địa này của người Anh, ông đã thấy được cách thức và thể loại kiến trúc của châu Âu. Thời đó ở Sài Gòn, chưa có một công trình nào làm kiểu mẫu. Với đề án của tu viện và nhà nguyện do Nữ tu Benjamin cung cấp, ông ta đã phác họa được một họa đồ phối cảnh chung và thực hiện công trình nhờ sự cộng tác của các công nhân người Việt. Chính ông đã phải vẽ sơ đồ của tháp chuông và tự mình trông nom công việc một cách rất cẩn thận, và chính ông đã hoàn thành nhiều phần khác của công trình. Mỗi ngày người ta thấy ông có mặt ở công trường và để ý tới từng chi tiết. Phải thú nhận là nếu không có ông thì không thể thực hiện được một công trình như vậy vào một thời điểm mà ở Sài Gòn chưa có thợ cũng như chưa có nhà thầu..." Như thế, cơ sở của Dòng Thánh Phaolô do Nguyễn Trường Tộ (từng được Giám mục Gauthier gọi là "Kiến trúc sư") xây cất nổi lên giữa Sài Gòn năm 1864 như một công trình kiên cố có tầm cỡ (theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 2). Thông tin về dòng nữ tu này xem:
  16. Theo Trương Bá Cần, sách đã dẫn.
  17. "Khai hoang từ" là một bản trình bày kế hoạch phát triển đất nước một cách tương đối rõ ràng và dễ thực hiện, làm cho nhà vua phải lưu tâm. Có lẽ vì thế mà ông đã được triệu về kinh để giúp giải quyết vấn đề tàu London (ý kiến của Trương Bá Cần, bản điện tử: trang 2).
  18. Đại Nam thực lục, phần "Chính biên". Bản dịch của Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974, trang 35-36.
  19. Xem "Di thảo số 11" in trong sách Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo của Trương Bá Cần.
  20. Dẫn lại theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 2.
  21. Nguyễn Trường Tộ đã khai thông được con đường thủy từ Sông Cấm cho tới sông Vinh, xóa bỏ được Thiết Cảng (Cửa Sắt), để làm thành Kênh Sắt, mà ngày nay gọi là Kênh Gai hay kênh Nguyễn Trường Tộ. Công việc đào có lẽ hoàn thành trong những ngày Nguyễn Trường Tộ còn ở Nghệ An, tức giữa năm 1866, và ông đã làm bài bạt "Mừng đào xong Thiết Cảng" (theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 2).
  22. 1 2 Theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 2.
  23. Theo nội dung bức thư Giám mục Gauthier gởi cho Hội Truyền bá Đức tin ở Pháp đề ngày 31 tháng 1 năm 1868.
  24. Trong một bức thư gởi Hội Truyền giáo Paris, đề ngày 31 tháng 3 năm 1868, Giám mục Gauthier viết: "...Công việc sẽ tiến triển nhanh hơn nếu không có việc cử sứ bộ đi Pháp và những sự chậm chạp của xứ này... Trong các quan thượng thư, có hai vị cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm của nhà vua..." Hai vị "cựu trào" trong thư là Nguyễn Tri PhươngVõ Trọng Bình. Nhưng, theo Trương Bá Cần (bản điện tử: tr. 3) có lẽ không phải chỉ có hai vị đại quan ấy, mà có cả một luồng dư luận khá rộng rãi, trong Triều đình cũng như ở các tỉnh, tỏ ra dè dặt, lo sợ trước ảnh hưởng của các giáo sĩ người Pháp: Một trường đào tạo nhân tài đầu tiên hoàn toàn do các thầy người Pháp, đặt ngay bên cạnh Tòa Giám mục, dưới sự giám sát của Giám mục.
  25. Trước kia dân Xuân Mỹ ở vùng dưới chân đồi thấp, tới mùa mưa thì lầy lội, bẩn thỉu. Nguyễn Trường Tộ đã khuyên dân dời cư lên triền đồi cách chỗ ở hiện nay khoảng 400 mét về phía Tây. Chính ông đã vẽ đường, chia ô cho các hộ.
  26. Trong số các công trình do Nguyễn Trường Tộ xây cất ở Xã Đoài, nay chỉ còn lại nhà tràng Latinh (tức tiểu chủng viện) ba tầng, hình chữ thập gọi là "nhà Tây", chứ Tòa Giám mục và các nhà phụ thuộc đều đã bị bom Mỹ đánh sập (theo Trương Bá Cần).
  27. Nguồn: Trương Bá Cần, bản điện tử trang 3.
  28. Kho lưu trữ MEP. Dẫn lại theo Trương Bá Cần, bản điện tử trang 3.
  29. Trích số tiền theo nguyên văn bài báo "Về việc xây mộ cụ Nguyễn Trường Tộ", đăng trên báo Tràng An.
  30. , Về việc xây mộ cụ Nguyễn Trường Tộ, Báo Tràng An, ngày 21/05/1942.
  31. Ký ức về người cha suốt một đời học tập để con cháu noi theo của Chuyên gia Nông nghiệp Nguyễn Lân Hùng
  32. Theo Nguyễn Trường Tộ, trong hoàn cảnh đất nước còn nghèo, triều đình nếu cho mua những sản phẩm kỹ thuật hiện đại như tàu biển, máy móc, vũ khí... thì chỉ cần mua mỗi thứ một đơn vị để nghiên cứu. Ông tin có thể căn cứ vào mẫu mã đó sẽ chế tạo mới, không những chất lượng không thua sút mà còn có những cải tiến tốt hơn.
  33. Ở bản "Giáo môn luận", Nguyễn Trường Tộ đã dùng những lý lẽ của trời đất và các chứng cớ lịch sử để kêu gọi triều đình phải có chính sách bao dung, nhân ái đối với những tín đồ Công giáo.
  34. Xem thêm chương 5: Những đề nghi cải cách của Nguyễn Trường Tộ in trong sách Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo của Trương Bá Cần.
  35. Nguyễn Trường Tộ: Con người và Di thảo của LM Trương Bá Cần.
  36. Các Vua cuối Nhà Nguyễn, Tập I.
  37. Nguồn: Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1208-1209.
  38. Trần Bạch Đằng, trích trong Lời tựa đề ở đầu bộ sách Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo của Linh mục Trương Bá Cần, bản điện tử trang 1.
  39. GS. Trần Hữu Tá, bài viết về Nguyễn Trường Tộ. Bản điện tử: .
  40. Trần ThắngNgô Quảng đều là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại Tần Thủy Hoàng.